Niosome là hệ thống phân phối thuốc mới dạng túi, có thể được sử dụng để phân phối thuốc bền vững, có kiểm soát cũng như nhắm mục tiêu. Liposome là hệ thống phân phối thuốc dạng mụn nước đầu tiên nhưng chúng có một số nhược điểm như độc tính, chi phí cao, nếu sử dụng nguyên liệu rẻ tiền thì chất dinh dưỡng sẽ rò rỉ ra khỏi màng liposome, khiến hiệu quả mang lại không cao và các vấn đề về độ ổn định ở các độ pH khác nhau. Do những nhược điểm của liposome, mối quan tâm nghiên cứu đã chuyển sang Niosome.
Niosome là gì?
Niosome là những tiểu phân hình cầu, có kích thước nhỏ, được tạo bởi thành phần chính là chất hoạt động bề mặt (HĐBM) không ion. Ngoài ra, người ta thường kết hợp chất HĐBM không ion với cholesterol giúp tạo tính bền vững cũng như góp phần vào việc tạo hình dáng cho hạt Niosome. Các chất HĐBM không ion đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành của Niosome. Do cấu trúc của chúng, chúng có thể được sử dụng để nạp và phân phối cả thuốc ưa nước và kỵ nước.
Ví dụ về các loại thuốc được vận chuyển bằng niosomes là minoxidil và axit ellagic . Tác dụng hiệp đồng của hai chất chống oxy hóa, α-tocopherol và curcumin, đã được chứng minh bằng cách sử dụng hệ thống vận chuyển Niosome.
Hình 1: Cấu trúc của Niosome
Hình 2: Biểu diễn sơ đồ của các loại hệ thống phân phối mụn nước dựa trên lipid khác nhau.
a Các liposome thông thường thường bao gồm một lớp lipid kép bao gồm các phospholipid.
b Ethosome chủ yếu bao gồm phospholipid và nồng độ ethanol cao.
c Các bộ chuyển bao gồm các bộ kích hoạt cạnh.
d Niosome bao gồm các túi chất hoạt động bề mặt không ion (được điều chỉnh từ sau Hua 2015)
Chức năng của Niosome
Niosome là hệ mang thuốc có khả năng phân hủy sinh học, không độc, có độ bền tốt và giá thành rẻ, mang được lượng lớn hoạt chất với một thể tích tương đối nhỏ, giúp tăng sinh khả dụng đường uống cao.
Những tính năng ưu việt của công nghệ sinh học Niosome System
Việc ứng dụng Niosome và hệ thống túi chất hoạt động bề mặt không ion cho mục tiêu điều trị có những ưu điểm sau:
- Niosome có thể phân hủy sinh học, tương thích sinh học, không gây dị ứng và độc tính thấp
- Niosome giúp thuốc và hoạt chất thẩm thấu tốt và có thời gian lưu trữ dài
- Niosome hoạt động như một nhóm giải phóng thuốc ở chế độ ổn định, có tổ chức và bền vững
- Niosome giúp các phân tử thuốc hòa tan vào dựa vào các đặc tính của thuốc như thuốc ưa nước và ưa béo bên cạnh các chất thuốc amphiphilic.
- Niosome có thể làm tăng tính ổn định của thuốc đóng gói
- Niosome có thể cải thiện khả năng thẩm thấu qua da của thuốc
- Niosome có khả năng vượt qua BBB và tiếp cận việc vận chuyển thuốc đến não
- Niosome cải thiện hiệu suất điều trị của thuốc bằng cách thay đổi bề mặt và hạn chế tác dụng đối với các tế bào đích, do đó làm giảm độ thanh thải của thuốc
- Niosome có thể mở rộng sinh khả dụng đường uống của thuốc
- Biến đổi bề mặt rất đơn giản nhờ các nhóm chức năng trên đầu ưa nước của chúng
- Các đặc điểm của công thức túi, ví dụ, kích thước, độ mỏng, điện tích bề mặt, nồng độ và vết chích của thuốc, có thể kiểm soát được
- Xử lý, bảo quản chất hoạt động bề mặt và điều chế chất gây ô nhiễm không yêu cầu các điều kiện đặc biệt
- Các phương pháp đơn giản là cần thiết để sản xuất và sản xuất niosome quy mô lớn
Ứng dụng Niosome trong mỹ phẩm
Nhiều năm trở lại đây, việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào điều chế, sản xuất mỹ phẩm, sản phẩm làm đẹp rất được chú trọng. Đặc biệt là khi công nghệ Niosome ra đời. Công nghệ Niosome thực sự là một bước tiến lớn trong việc sản xuất các sản phẩm làm đẹp. Bởi lẽ, tính chất của công nghệ Niosome tương tự với cấu trúc sinh học nên Niosome không chỉ mang và giải phóng những hoạt chất một cách hiệu quả mà còn đem đến các lợi ích lớn từ hoạt động tái tạo, phục hồi và trẻ hóa trên màng tế bào.
Trong mỹ phẩm và chăm sóc da, việc sử dụng Niosomes rất hữu ích do nó có thể cải thiện hiệu quả của sản phẩm và tăng khả năng thâm nhập, tăng khả năng tác dụng sinh học của các thành phần kém hấp thu, và tăng cường sự ổn định của thuốc/ hoạt chất.
Ứng dụng công nghệ Niosome trong mỹ phẩm mang đến rất nhiều sản phẩm mới, hoạt động chọn lọc, hiệu quả và đảm bảo an toàn hơn. Điều này đúng trong nhiều trường hợp, điều kiện và quy trình khác nhau. Công nghệ Niosome cũng góp phần mở rộng các dạng, các loại sản phẩm mỹ phẩm, từ đó, đa dạng cách thức và phương pháp sử dụng các loại sản phẩm mỹ phẩm này
Cơ chế của Niosome
Công nghệ Niosome được ứng dụng trong mỹ phẩm dưỡng da, mỹ phẩm chống lão hóa nhằm giúp đưa các dưỡng chất thấm sâu, nhanh, và an toàn vào da và đến từng tế bào tổn thương.
Niosome có thể vận chuyển thuốc đồng thời, ví dụ như doxorubicin và curcumin (thuốc chống ung thư). Niosome có thể được sử dụng để vận chuyển thuốc qua mắt (ví dụ-tacrolimus, naltrexone HCl) , qua da (ví dụ-gallidermin, clomipramine), phổi (ví dụ-glucocorticoid), đường uống ( example-cefdinir, Lornoxicam), cũng như chúng có thể được sử dụng để đưa thuốc qua hàng rào máu não (example-temozolomide).
Những nỗ lực đặc biệt nhằm mục đích sử dụng Niosome như là hệ thống vận chuyển thuốc qua da hiệu quả. Đặc biệt, Niosome được coi là một hệ thống phân phối thuốc thú vị trong điều trị các rối loạn da liễu. Trên thực tế, việc bôi Niosome tại chỗ có thể làm tăng thời gian lưu trú của thuốc trong lớp sừng và biểu bì, đồng thời làm giảm sự hấp thu toàn thân của thuốc. Chúng được cho là cải thiện các đặc tính của lớp sừng, bằng cách giảm mất nước qua biểu bì và tăng độ mịn màng thông qua việc bổ sung lượng lipid bị mất cho da. Hơn nữa, các chất hoạt động bề mặt không ion thường thể hiện các đặc tính da liễu thuận lợi, rất dịu nhẹ đối với da và mắt. Vì thế, Niosome có thể được tạo thành từ nhiều loại amphiphiles mang đường, polyoxyethylene, polyglycerol, ete vương miện và các nhóm đầu ưa nước axit amin và những amphiphile này thường có một đến hai nhóm alkyl hoặc steroid kỵ nước. Niosome mang hiệu quả cho thuốc bôi ngoài da.
Hình 3: Cơ chế hoạt động của niosome như hệ thống phân phối thuốc qua da
Việc đưa dược chất khó tan vào các hệ phân tán mịn để tăng vận chuyển đã được nghiên cứu trong nhiều công thức đặc biệt là Niosome với cấu trúc đặc biệt và khả năng mang dược chất đa dạng. Ngoài ra, Niosome là hệ mang thuốc được ứng dụng nhiều với mục đích tăng độ tan cho dược chất ít tan và tăng tính thấm của dược chất qua da với các chế phẩm dùng qua da.
Với những ưu điểm trên của Niosome, Dr. HEDISON đã ứng dụng công nghệ sinh học Niosome System trong các sản phẩm của mình để tối ưu hiệu quả nhất.
Công nghệ sinh học Niosome System được xem là công nghệ hiện đại, tiên tiến trong lĩnh vực dược mỹ phẩm hiện nay. Dr Hedison là một trong những hãng hàng đã và đang ứng dụng với các sản phẩm mang lại hiệu quả trên cả mong đợi. Ví dụ như sự kết hợp công nghệ sinh học Niosome và Idebenone giúp khắc phục được các nhược điểm và đem lại hiệu quả tuyệt vời cho làn da khỏe đẹp. Idebenone (Hydroxydecyl Ubiquinone) là một dẫn xuất của Coenzyme Q10 được mệnh danh là “Viên ngọc của tuổi trẻ” giúp làm trắng sáng, đều màu da; tăng cường dưỡng ẩm, tăng độ đàn hồi và cải thiện bức tường bảo vệ da; giảm nếp nhăn, giúp da săn chắc, trẻ hóa từ bên trong; chăm sóc mềm mại da thô ráp, hư tổn. Tuy nhiên Idebenone rất khó ổn định, khiến nó trở thành một thành phần khó chế tạo trong mỹ phẩm. Idebenone yếu với không khí và ánh sáng và có khả năng thẩm thấu qua da thấp hơn so với các thành phần hòa tan trong chất béo với tư cách là thành phần hòa tan trong nước, rất khó áp dụng cho mỹ phẩm. Chính vì vậy để khắc phục nhược điểm trên, Niosome được sử dụng để tối ưu hoá ưu điểm của Idebenone và mang tới hiệu quả vượt trội. Niosome là hệ mang thuốc mang Idebenone với mục đích tăng độ tan cho dược chất ít tan và tăng tính thấm của dược chất qua da với các chế phẩm dùng qua da. Vậy nên những ưu điểm của Idebenone được phát huy tối đa.
Hình 4: Idebenone Boosting Ampoule
Nguồn
Preparation of Nano Niosomes Loaded with Rutin and Aloe Gel Extract
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/296301/CTv182V36S012020046.pdf
https://www.mdpi.com/1422-0067/23/17/9668#B19-ijms-23-09668
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3255404/
https://europepmc.org/article/med/22270206
https://sj.ctu.edu.vn/ql/docgia/download/baibao-29541/02-TN-LE%20TRONG%20NGHIA(10-18).pdf